Những ngày đầu tiên của tháng 12/2025, có thêm nhiều ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động như BVBank tăng lãi suất tiết kiệm trực tuyến với mức tăng từ 0,05-0,3%/năm với các kỳ hạn; Vietinbank cũng vừa tăng lãi suất tiết kiệm trực tuyến từ 0,4 (với kỳ hạn 1-2 tháng) đến 0,6%/năm (kỳ hạn 6-11 tháng); MB tăng lãi suất ngân hàng trực tuyến từ 0,35 (kỳ hạn 3-5 tháng) - 0,6%/năm (kỳ hạn 1 đến 2 tháng).
Thêm nhiều ngân hàng tăng lãi suất huy động
Trước đó, riêng trong tháng 11, có đến 22 ngân hàng tăng lãi suất huy động với mức tăng 0,2 - 0,6%/năm các kỳ hạn từ 3 tháng đến 12 tháng bao gồm: VPBank, MB, HDBank, GPBank, BVBank, Sacombank, BaoViet Bank, PVCombank, LPBank, Cake by VPBank, MBV, Bac A Bank, Vikki Bank, Nam A Bank, NCB, VIB, TPBank, OCB, Techcombank, VCBNeo, VPBank và VietinBank. Trong đó, có 5 ngân hàng đã tăng lãi suất hai lần trong tháng.
| |
| Lãi suất huy động tăng mạnh những tháng cuối năm. |
Song song với tăng lãi suất các kỳ hạn huy động phổ biến, nhiều ngân hàng cũng tăng lãi suất các kỳ hạn 12 - 13 tháng nhưng áp dụng với khách gửi số tiền rất lớn. PVcombank áp dụng lãi 9%/năm cho kỳ hạn 12 - 13 tháng khi khách gửi tiền tại quầy và phải duy trì số dư tối thiểu 2.000 tỷ đồng. HDBank áp dụng lãi suất 8,1%/năm cho kỳ hạn 13 tháng và 7,7%/năm cho kỳ hạn 12 tháng, với điều kiện duy trì số dư tối thiểu 500 tỷ đồng…
5 ngân hàng có lãi suất huy động cao nhất thị trường
PVcombank: 9%/năm lãi suất 12 tháng; 5%/năm kỳ hạn 6 tháng; 4,1%/năm kỳ hạn 3 tháng; VPBank: 6,5%/năm kỳ hạn 12 tháng; 6,3%/năm kỳ hạn 6 tháng; 4,6%/năm kỳ hạn 3 tháng; Bac A Bank: 6,5%/năm kỳ hạn 12 tháng; 6,4%/năm kỳ hạn 6 tháng; 4,75%/năm kỳ hạn 3 tháng; HD Bank: 7,7%/năm kỳ hạn 12 tháng; 5,5%/năm kỳ hạn 6 tháng; 4,3%/năm kỳ hạn 3 tháng; VietA Bank: 6,5%/năm kỳ hạn 12 tháng; 6%/năm kỳ hạn 6 tháng; 4,4%/năm kỳ hạn 3 tháng.
Không chỉ lãi suất huy động tăng, lãi suất liên ngân hàng qua đêm của ngân hàng tăng mạnh. Theo số liệu từ Hội Nghiên cứu thị trường liên ngân hàng Việt Nam, lãi suất bình quân liên ngân hàng - nơi vay mượn giữa các nhà băng - ngày 1/12 tăng 0,8-1,62%/năm ở hầu hết kỳ hạn một tháng trở xuống, trừ kỳ hạn 2 tuần. Cụ thể, lãi suất qua đêm - kỳ hạn chiếm chủ yếu giá trị giao dịch giữa các nhà băng - tăng lên 7%/năm, cao nhất kể từ tháng 11/2022. Mức lãi các kỳ hạn khác như một tuần là 7,3%/năm, hai tuần đi ngang ở 6,1%/năm và một tháng cũng tăng lên 6,95%/năm.
Nhóm ngân hàng tư nhân vừa và nhỏ đang hút tiền gửi
Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Nguyễn Minh Tuấn, CEO AFA Capital, Đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn Tài chính Việt Nam (VWA), cho biết tính đến ngày 3/12/2025, lãi suất qua đêm đã lên tới 7,5%/năm, nhưng điểm đáng nói hơn là tất cả các kỳ hạn từ một tuần, hai tuần đến 1, 3, 6, 9 tháng và thậm chí kỳ hạn một năm đều ở vùng 6,1-7,5%/năm. Khi mặt bằng lãi suất tăng đồng loạt ở mọi kỳ hạn, điều này phản ánh thanh khoản thiếu hụt không còn mang tính cục bộ mà đã lan sang cả kỳ hạn trung và dài, thể hiện mức độ căng thẳng rõ rệt.
Theo ông Tuấn, tín dụng toàn hệ thống dự kiến tăng tới 20% vào cuối năm, vượt xa mức mục tiêu 16%, trong khi huy động dân cư chỉ tăng khoảng 16%. Việc tín dụng tăng nhanh hơn huy động khiến hệ thống ngân hàng luôn trong trạng thái “cho vay vượt khả năng huy động”, buộc nhiều nhà băng, nhất là nhóm ngân hàng tư nhân quy mô vừa và nhỏ, phải liên tục tăng lãi suất huy động để hút tiền gửi. Trong khi đó, nhóm ngân hàng quốc doanh vẫn giữ mặt bằng lãi suất thấp hơn, tạo sự lệch pha trong cạnh tranh vốn và khiến các ngân hàng yếu thế càng phải đẩy mạnh lãi suất huy động.
Ông Tuấn phân tích, một điểm then chốt là dù Ngân hàng Nhà nước đã bơm mạnh qua kênh cho vay cầm cố giấy tờ có giá (OMO) khoảng 360.000 tỷ đồng từ đầu năm đến nay - với lãi suất chỉ 4%/năm, các ngân hàng vẫn phải vay nhau trên thị trường liên ngân hàng ở mức 6%/năm.
“Điều này cho thấy hai vấn đề: thứ nhất, hệ thống thiếu thanh khoản không chỉ do nhu cầu ngắn hạn tăng mà thực chất thiếu vốn nòng cốt dài hạn; thứ hai, không phải ngân hàng nào cũng có đủ tài sản đủ chuẩn, chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, để cầm cố vay OMO. Vì vậy, dù thanh khoản được bơm mạnh, khả năng hấp thụ của hệ thống bị giới hạn và lãi suất liên ngân hàng vẫn neo cao”, ông Tuấn nói.
Ông Tuấn cho biết thêm diễn biến lãi suất cũng lan sang tỷ giá. Khi lãi suất nội tệ cao, theo nguyên lý chênh lệch lãi suất, tiền đồng giảm áp lực mất giá. Trong khi đó, lãi suất thị trường 1 (lãi suất huy động và cho vay đối với dân cư và doanh nghiệp) đã tăng rõ rệt. “Vấn đề cốt lõi hiện nay nằm ở sự mất cân đối giữa tín dụng - huy động, thiếu vốn dài hạn, thiếu tài sản chuẩn để tiếp cận nguồn vốn giá rẻ từ Ngân hàng Nhà nước và áp lực tỷ giá đang hiện hữu”, ông Tuấn cho hay.




